Hàm lượng Progesterone trong sữa và huyết thanh có mối liên hệ chặt chẽ với động thái của chu kỳ sinh sản và thể trạng của bò. Vì thế, bản thân hormone này cũng như các phương pháp phát hiện nó đã được nghiên cứu nhiều năm trong lĩnh vực sinh sản của bò. Gần đây, kỹ thuật miễn dịch phóng xạ (RIA) có nhiều ưu việt khi dùng nó trong các phòng thí nghiệm để định lượng progesterone. Phương pháp này rất chính xác nhưng cũng có nhiều trở ngại khi ứng dụng rộng rãi trên thị trường. Đó là: giá thành, người thực hiện cần được đào tạo kỹ và việc xử lý các chất thải độc hại của phản ứng.
Bò đã phối giống đậu thai thì không động dục (lên giống) không đậu thai cũng không lên giống, nguyên nhân và biện pháp khắc phục? Con bò nhà tôi sau khi phối giống được vài 3 tháng, cứ khoảng 7-10 ngày, dịch nhờn chảy ra giống như khi động dục, phối giống không đậu thai, điều trị như thế nào?
Việc phát hiện động dục và xác định thời điểm phối thích hợp rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh sản và hiệu quả chăn nuôi bò sữa, vì khi bò sữa đậu thai, sinh sản thành công thì người chăn nuôi mới khai thác được sữa, nếu người chăn nuôi không phát hiện và sử dụng được thời gian động dục hoặc chậm trễ thì phải chấp nhận trễ 1 chu kỳ tức chậm lại 21 ngày nữa.
Lâm Đồng là địa phương ở Tây Nguyên có điều kiện thuận lợi để phát triển ngành chăn nuôi bò sữa. Phát triển ngành chăn nuôi này, một trong những vấn đề quyết định là có con giống năng suất và chất lương cao, mà cụ thể ở đây chính là giống bò sữa Holstein Friesian (HF).
Trong chăn nuôi bò nói chung có 2 phương pháp phối giống là: phối giống trực tiếp và phối giống theo phương pháp thụ tinh nhân tạo, nhưng chăn nuôi bò sữa chỉ sử dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo.
Gieo tinh nhân tạo (GTNT) là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đầu tiên, đã được sử dụng hơn 200 năm. Là một công nghệ hiện đại, GTNT với tinh dịch tươi hoặc đông lạnh đã là kỹ thuật thành công nhất và công nghệ sinh sản hiệu quả trong chăn nuôi trong sáu thập kỷ qua. Sử dụng GTNT có một tác động lớn đến các chương trình cải thiện di truyền ở các nước phát triển, góp phần tăng 1,0 đến 1,5% tỷ lệ hàng năm của tiến bộ di truyền ở bò sữa (Lohuis, 1995). Thông qua các tiến bộ di truyền đạt được bằng cách sử dụng GTNT, ước tính rằng khoảng 50% việc tăng hiệu quả sản xuất sữa quan sát thấy ở các nước phát triển trong nửa sau thế kỷ 20, là nhờ phổ biến kỹ thuật GTNT hơn phối giống thông thường, với 50% khác là nhờ tiến bộ đáng kể trong hệ thống sản xuất bao gồm cả sức khỏe đàn gia súc, quản lý tổng hợp, và dinh dưỡng (Gordon, 1994).
Trong chăn nuôi bò sinh sản bò sữa, việc phát hiện bò động dục chính sác để phối giống cho bò có ý nghĩa rất quan trọng nhằm nâng cao năng xuất chăn nuôi mặt khác hạn chế những rủi ro khi phải can thiệp làm hỏng bộ máy sinh sản của bò cái