Giống & Di truyền học
Phần I: Đặt vấn đề
Việt Nam bắt đầu lai tạo bò sữa từ những năm 1959-1960 tại nông trường Ba Vì. Giống bò sữa đầu tiên là Lang trắng đen được nhập từ Trung Quốc, sau đó là nhập Holstein Friesian (HF) từ Cu Ba. Công tác nhân thuần và lai tạo được tiến hành tại các cơ quan nghiên cứu và nông trường quốc doanh tại Ba Vì và Mộc Châu. Sau ngày giải phóng Miền Nam, một số bò thuần HF từ Mộc Châu chuyển vào Đức Trọng. Trong thời kì bao cấp, số lượng và chất lượng đàn bò thuần và lai HF có chiều hướng đi xuống. Những năm đầu của thời kì đổi mới, một số bò thuần HF được chuyển về các trại tư nhân. Từ 1986 công tác lai tạo bò sữa phát triển mạnh ở TP. Hồ Chí Minh. Số lượng bò lai HFvà số hộ nuôi bò lai sữa tăng nhanh. Năm 1990 Thành phố có khoảng 5000 con và đến 1994 lên 10400 con. Vào năm 2000, tổng đàn bò sữa cả nước gần 35 ngàn con, có hơn 17 ngàn cái sinh sản. Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận chiếm khoảng 31 ngàn con. Trên 90% số bò sữa nuôi trong hộ dân. Bình quân 4-5 con/hộ. Tập trung ở vùng ven đô thị, thành phố lớn.
Ngày nay con bò sữa đã gần như trở thành một nhà máy sản xuất sữa. Năm 2008 những con bò sữa Holstein nằm trong Chương trình Đánh giá Di truyền Quốc gia Hoa kỳ có sản lượng sữa bình quân là 10.500 kg sữa/năm với 380 kg bơ và 320 kg protein, trong khi đó cách đây 22 năm cũng những giống bò này chỉ cho 7.900 kg sữa với 280 kg bơ và 250 kg protein.
Việc kiểm tra đầy đủ bộ gen của một cá thể chỉ tốn khoảng 300-400 USD trong khi chi phí cho tiến trình kiểm tra qua đời sau của một bò đực giống tốn khoảng 40.000 USD. Đặc biệt đối với các tính trạng có hệ số di truyền thấp như: sức khỏe, khả năng sinh sản… việc chọn giống thông qua GEBV đã giúp cải thiện đáng kể hiệu quả chọn lọc
1. Ứng dụng của GEBV trong lai gần (Inbreeding)?
Vì GEBV có thể xác định sớm trên một con bò đực khi nó còn rất trẻ nên sẽ giúp tăng tỷ lệ (sử dụng) trong lai gần. Một chương trình nhân giống thường tập trung vào việc làm sao để có kiểu gen tốt nhất và sớm nhất.
Lai gần (Inbreeding) được hiểu là việc sử dụng một cặp lai có mối quan hệ di truyền gần (VD: Mẹ và con trai, Cha và con gái hay anh chị em với nhau) nhằm mục đích sớm loại bỏ những kiều gen bất lợi và cố định nhũng kiểu gen mong muốn.
Cách giải thích (tiếng Anh) của công thức này như sau: tiến bộ di truyền (DG) là sản phẩm của cường độ chọn lọc nhân với hệ số di truyền của tính trạng đó và độ lệch chuẩn kiểu hình của tính trạng. Vì vậy, chỉ cần một trong ba thành phần đó có giá trị thấp, tiến bộ di truyền thông qua sự chọn lọc sẽ rất chậm. Giá trị kinh tế của một tính trạng sau khi được cải thiện sẽ giúp giải thích rõ vai trò của sự chọn lọc. Như vậy HSDT giúp những người chọn giống quyết định tính trạng nào nên được cải thiện bằng cách chọn lọc (di truyền).
Trong 10 năm, từ 1990 đến năm 2000, tốc độ tăng đàn bò sữa ở Việt Nam đạt trung bình 12% mỗi năm, cao gấp 2 lần so với heo và gà. Nuôi bò sữa nông hộ đã trở thành phổ biến tại các địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Cần Thơ, Tiền Giang, Hà Nội. Vĩnh Phúc… Nuôi bò sữa nông hộ đã cho thấy tính hiệu quả và bền vững, đặc biệt là đối với những vùng thuần nông, năng suất cây trồng thấp. So với heo và gà, thì nuôi bò sữa cho hiệu quả kinh tế cao và ổn định hơn. Rất nhiều nông dân có nguyện vọng muốn được học tập và đầu tư vào nuôi bò sữa. Đến nay nhiều tỉnh trong cả nước đã xây dựng dự án phát triển bò sữa.
Lê Quang Nam, Nguyễn Trọng Bình, Trần Thị Thu Thủy, Nguyễn Văn Ba, Lê Anh Quỳnh, Phạm Doãn Lân
Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Tế bào Động vật
Theo thông lệ, bảng chấm điểm vật nuôi được chia thành hai phần:
Giống bò có nhiều ưu diểm, thuyết phục được những người chăn nuôi luôn quan tâm dến khả năng sinh lời, vì những lý do sau …