Giải pháp cho nhà đầu tư - chính sách
Nông nghiệp Israel, kỳ tích trên hoang mạc

Vừa qua, phóng viên VnEconomy đã có chuyến đi tìm hiểu những thành tựu nổi bật của nền nông nghiệp nước này.
Thiên đường giữa sa mạc
Ngày  cuối cùng, trên đường từ Biển Chết quay trở lại Tel Aviv để ra sân bay,  người viết tình cờ được chứng kiến cơn mưa đầu mùa. Sống ở một nước  nhiệt đới, thật thú vị khi được hưởng cảm giác “mưa bóng mây” ở giữa  vùng đất này. Cơn mưa có thể gọi là lớn - như lời nhận xét của người lái  xe địa phương - kéo dài chừng 5 phút và cũng chỉ đủ làm mặt đường cao  tốc loáng nước và chiếc cần gạt nước ôtô làm việc nhàn nhã, chứ đừng nói  đến tạo dòng chảy.
Tuy  nhiên, sau gần một tuần thăm và làm việc tại các dự án nông nghiệp của  Israel, đã không còn bất ngờ với lời khẳng định đầy tự hào của người  Israel: “Khí hậu khắc nghiệt, nhưng chúng tôi vẫn có nền nông nghiệp  tiên tiến nhất thế giới”.
Biển  Chết. Địa danh rất quen thuộc với phần còn lại của thế giới nhờ sự kỳ  lạ của vùng đất này cũng như sự khắc nghiệt của nó. Tuy nhiên, khí hậu  quanh khu vực du lịch này còn khá hơn nhiều phần còn lại của hoang mạc  Negev nhờ có chút hơi ẩm từ biển. Nguồn gốc của từ Negev bắt nguồn trong  tiếng Hebrew có nghĩa là “khô”. Hoang mạc này chiếm trên một nửa diện  tích Israel mà khu vực trung tâm chỉ có lượng mưa hàng năm trên dưới 200  mm. Cũng chính từ hoang mạc này, kỳ tích thần kỳ về nông nghiệp của  Israel được tạo ra.
Thung  lũng Arava. Địa danh khá lạ tai đối với khách du lịch, nhưng lại là cái  tên rất tự hào của mọi người dân Israel vì tại đây, phép màu đã làm nở  hoa giữa sa mạc - những phép màu thực sự của khoa học công nghệ. Là phần  khô hạn nhất của hoang mạc Negev, thung lũng Arava trải dài từ phía Nam  của Biển Chết đến Vịnh Eliat. Lượng mưa bình quân của khu vực này chỉ  từ 20-50 mm mỗi năm. Nhiệt độ mùa hè bình quân lên tới 40 độ C và ban  đêm là 25 độ C. Nhiệt độ mùa đông ban ngày là 21 độ và ban đêm chỉ từ  3-8 độ C. Độ ẩm cực thấp và sự chênh lệch nhiệt độ khiến đá cũng phải vỡ  vụn mà khắp hoang mạc phủ một lớp đá vụn và cát đặc thù sa mạc. Arava  là một trong những vùng đất khô cằn nhất thế giới. Cảm giác đầu tiên khi  đặt chân đến vùng đất này, là miền Trung Việt Nam với những dải đất bạc  màu và đồi cát, hóa ra vẫn còn là miền đất trù phú!
Không  từ nào có thể diễn tả đúng hơn về một “vườn địa đàng” đã được tạo ra  giữa thung lũng Arava, đúng như Tổng thống Israel Shimon Peres đã thốt  lên khi đến thăm nơi này năm 2009: “Hãy đến và thấy chính con người cũng  có thể tạo nên vườn địa đàng (Gadern of  Eden)”!
Ông  Ezra Ravins, người đứng đầu cộng đồng hơn 3.000 người tại khu vực này  cho biết, từ một nhóm thanh niên Israel “bồng bột”, mang theo bánh mì và  nước quyết định định cư tại thung lũng Arava năm 1959, cả một cộng đồng  đã được xây dựng với nhiều thế hệ, tạo thành một trong những trung tâm  nông nghiệp lớn nhất cả nước. “Khi những người đầu tiên đến đây, quyết  định đó được xem là “điên rồ” nhất và chính những nhà khoa học cũng  khẳng định con người không thể sống được ở vùng đất này”.
Theo  số liệu đến tháng 6/2011, dân số của khu vực vào 3.050 người với 700  gia đình, trong đó 500 gia đình làm nghề nông. Tổng diện tích đất đang  sử dụng cho canh tác là 3.576 ha. Phần lớn diện tích này là trồng rau  (82%), 15% trồng cây ăn trái và 3% trồng hoa. Ớt ngọt là loại rau chính  của Arava, chiếm 50% tổng diện tích khu vực và chiếm 60% diện tích trồng  rau nói chung.
Israel  có diện tích rất nhỏ, trên 20.000 km2, tức là chỉ lớn hơn tỉnh Nghệ An  của Việt Nam chút ít. Tuy nhiên Israel lại được mệnh danh là “thung lũng  Silicon” của thế giới trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghệ nước. Chỉ  với 2,5% dân số làm nông nghiệp nhưng mỗi năm Israel xuất khẩu chừng 3  tỷ USD nông sản, là một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Ít  ai biết rằng, những sản phẩm rau quả từ Arava - một trong những nơi khô  cằn nhất thế giới - lại chiếm tới trên 60% tổng sản lượng xuất khẩu rau  của Israel và 10% tổng sản lượng hoa xuất khẩu.
Vàng trắng
Thiên  đường nông nghiệp tại Arava gắn liền với một công trình xứng đáng ghi  nhận như một kỳ công mà con người đã tạo ra giữa xa mạc: bể chứa nước  khổng lồ mang tên Shizaf. Với khả năng dự trữ 150.000 m3 nước sạch, bể  chứa này có nhiệm vụ cấp nước sạch cho sinh hoạt và tưới tiêu. Bể được  thiết kế để tích trữ nước từ giếng khoan vào thời điểm nhu cầu giảm.
Bể  có đáy chìm 3,5 m dưới mặt sa mạc và chia thành nhiều lớp khác nhau,  tạo nên bề mặt nổi 10m. Một khối lượng công việc khổng lồ được thực hiện  để đào bỏ 320.000 m3 đá và đất sa mạc. Độ sâu của giếng khoan lên tới  1,5 km mới tới túi nước ngầm. Kỹ thuật thiết kế đặc biệt của bể chống  lại chế độ bốc hơi tự nhiên cũng như thu gom nước một cách hoàn hảo.
Điều  kiện tự nhiên của Israel đặc biệt khô hạn với lượng mưa rất thấp và  thay đổi theo từng mùa: Phía Bắc quốc gia này lượng mưa khoảng 800  mm/năm và ở phía Nam chỉ khoảng 50 mm/năm. Mùa mưa kéo dài từ tháng 11  đến khoảng tháng 3 năm sau và lượng bốc hơi tự nhiên lên tới 1.900-2.600  mm/năm. Không có gì ngạc nhiên khi nước ngọt ở Israel được coi như vàng  trắng và được quản lý một cách chặt chẽ hơn bất kỳ nơi nào trên thế  giới. Chính phủ xây dựng hẳn một bộ luật để đo lường mức tiêu thụ nước,  kiểm soát việc khai thác nước ngầm, ngăn chặn ô nhiễm nước. Công nghệ xử  lý nước của Israel thuộc hàng hiện đại nhất thế giới với tỉ lệ tái chế  tới 75%.
Dọc  ngang Israel, ở những thành phố lớn hay những vùng nông thôn, hoang mạc,  hệ thống tưới nước hoàn hảo đến mức gần như không bỏ phí một giọt nước  nào. Đại diện công ty công nghệ tưới NaanDanJain cho biết 75% hệ thống  nước nông nghiệp của Israel áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, 25% còn lại  tưới nước bằng ống dẫn và vòi tưới các loại phun mưa nhỏ, không hề có  chế độ tưới ngập nước. Israel cũng là quốc gia phát minh ra hệ thống  tưới nước nhỏ giọt điều khiển bằng máy tính, kết hợp với các thiết bị  kiểm soát độ ẩm trong đất, có thể tính toán chính xác nhu cầu nước và  tiết kiệm tối đa.
Tại  công ty Netafim, người viết được chứng kiến những thành quả đáng ngạc  nhiên về hiệu quả của việc sử dụng công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel  trên khắp các dự án ở những vùng khô hạn trên thế giới. Hệ thống ống dẫn  nước như những mao mạch dẫn tới từng gốc cây, được vận hành chính xác  bằng công nghệ cao cũng như sử dụng tối ưu năng lượng mặt trời. “Đạt  năng suất cao hơn với chi phí thấp hơn” (grow more with less) là khẩu  hiện của Netafim và có lẽ cũng là hướng đi của phần còn lại của thế  giới, khi nguồn tài nguyên nước đang ngày càng suy giảm.
Bông  đùa với một người bạn Israel, “có lẽ các bạn sẽ không triển khai được  nhiều hệ thống tưới nước này ở Việt Nam. Chúng tôi cần hệ thống thoát  nước hơn”. Câu trả lời khiến tôi phải suy nghĩ: “Với điều kiện tự nhiên  khắc nghiệt, nguồn nước thiếu thốn, nhưng công nghệ cao, sự vận hành  khoa học và tiết kiệm đã đưa chúng tôi trở thành một trong nước có nền  nông nghiệp tiên tiến. Với điều kiện tự nhiên ưu đãi, Việt Nam thậm chí  còn có lợi thế xuất phát tốt hơn nhiều”. Cũng không có gì ngạc nhiên khi  những công ty cung cấp các sản phẩm, công nghệ tưới Israel như Netafim,  NaanDanJain… chiếm trên 30% thị phần thế giới với 80% tổng sản phẩm  được xuất khẩu hàng năm.
“Cây đũa thần” khoa học
Trong  lần tháp tùng Tổng thống Israel Shimon Peres thăm chính thức Việt Nam  vừa qua, bà Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp nước này dành cho VnEconomy một  buổi trao đổi ngắn. Lời khuyên được nhắc đi nhắc lại, cũng như kinh  nghiệm quan trọng nhất của Israel để xây dựng được một nền nông nghiệp  hiện đại là hãy đầu tư cho khoa học kỹ thuật. Điều này không mới, nhưng  nếu không có những quyết sách táo bạo, sự hỗ trợ của chính phủ thì rất  dễ rơi vào cảnh “đánh trống bỏ dùi”. Nói không đâu xa, sự phối hợp “bốn  nhà” ở Việt Nam vẫn còn đang loay hoay tìm hướng đi bền vững.
Một  con số dễ hình dung về năng lực của “cây đũa thần” khoa học. Năm 1950,  một nông dân Israel cung cấp thực phẩm đủ cho 17 người, hiện đã là 90  người. Một hecta đất hiện cho 3 triệu bông hồng, hay 500 tấn cà chua/vụ.  Một con bò cho tới 11 tấn sữa/năm - mức năng suất mà không một nước nào  trên thế giới có được.
Những  thực tế tại công ty NaanDanJain đã đem lại một bài học khác về sự phối  hợp: nhà khoa học, nhà doanh nghiệp có sự tách biệt khó phân định với  nhà nông. Đa phần các nước nhập khẩu công nghệ của NaanDanJain chỉ biết  rằng đây là một trong những công ty hàng đầu Israel chuyên về giải pháp  tưới, hệ thống công nghệ kiểm soát khí hậu nhà kính, mà không biết rằng  chính công ty cũng đang sở hữu những đồn điền rộng lớn, nơi chính những  tiến bộ khoa học của công ty được triển khai đầu tiên, nhằm đảm bảo sự  thích ứng hoàn hảo nhất đối với nhu cầu của người trồng trọt.
Một  trong những lợi thế của sự phối hợp giữa khoa học và nhà nông tại  Israel là tính cộng đồng rất cao. Nhà khoa học rất gần gũi với đồng  ruộng và nhiều trong số họ cũng chính là nông dân hoặc giữ vai trò tư  vấn trực tiếp cho nông dân. Các trung tâm nông nghiệp lớn, thậm chí cả  các “làng nông nghiệp” (từ địa phương là kibbutz) đều có sự xuất hiện  của các phòng nghiên cứu hoặc đại diện của các viện khoa học. Những  giống cây mới hay các nghiên cứu mới về hệ thống nhà kính trước hết được  thí nghiệm, kế đó sẽ áp dụng thử nghiệm với một số nhỏ hộ nông dân bằng  nguồn vốn hỗ trợ của hệ thống tài chính vi mô hoặc từ chính quỹ của  viện thí nghiệm, trước khi triển khai thương mại đại trà.
Tại  Israel phần lớn các nhà khoa học nông nghiệp làm cho chính phủ. Có tới  hơn 60% các công trình nghiên cứu nông nghiệp là của Cơ quan Nghiên cứu  Nông nghiệp hay trung tâm Volcani thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển  Nông thôn. Israel cũng là nước có mức đầu tư cho nghiên cứu thuộc loại  lớn nhất thế giới với gần 100 triệu USD mỗi năm, chiếm khoảng 3% tổng  sản lượng nông nghiệp quốc gia. Nguồn lực này đến từ ngân sách và cộng  động (50 triệu USD/năm), các hợp tác quốc gia song phương (12 triệu  USD/năm), các tổ chức nông nghiệp cấp địa phương và quốc gia (6 triệu  USD/năm) thông qua nguồn lợi từ thu hoạch cây trồng. Khu vực tư nhân  cũng đóng góp khoảng 25 triệu USD hàng năm.
Nguồn  lực này được cung cấp trực tiếp cho việc nghiên cứu và phát triển các  sản phẩm ứng dụng và các nhà đầu tư giữ bản quyền sáng chế. Phần lớn các  nghiên cứu đều do những công ty sản xuất sản phẩm đầu vào, như hệ thống  tưới tiêu, phân bón, nhà kính… triển khai. Sự phối hợp giữa kinh doanh  và nghiên cứu đảm bảo cho các nhà khoa học một mức ưu đãi đủ để phát huy  tối đa năng lực hoạt động chuyên môn. Thậm chí các chuyện các chuyên  gia nông nghiệp đi tư vấn trực tiếp cho các nông trại là điều không  hiếm.
Việt Nam  hiện đang là một trong những quốc gia đối tác quan trọng của Israel  trong lĩnh vực nông nghiệp. Một số công nghệ trong lĩnh vực tưới, chăn  nuôi bò sữa đã được doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu và ứng dụng hiệu  quả. TH True Milk - một trong những thương hiệu sữa tươi của Việt Nam -  là ví dụ thành công trong triển khai công nghệ chăn nuôi bò sữa. Công  nghệ quản lý đàn Afifarm của công ty SAE Afikim là hệ thống quản lý  trang trại bò sữa hiện đại nhất thế giới tới từng cá thể với chip điện  tử theo dõi tình trạng sức khỏe, chế độ dinh dưỡng và sản lượng sữa.
Công  nghệ tưới nhỏ giọt cũng đang được triển khai ở Việt Nam đang hứa hẹn  tạo ưu thế so với phương pháp tưới rãnh và tưới phun truyền thống. Những  trang trại bò sữa thí điểm cũng có thể được tìm thấy tại Hà Nội,  Tp.HCM, Hải Phòng…





















