Thức ăn cho bò sữa
Các loại thức ăn thường dùng nuôi bò sữa
1. Thức ăn thô xanh
Thức anh thô xanh là tên gọi chung cho các loại cỏ xanh, thân lá cây còn xanh, kể cả một số loại rau xanh và vỏ của những quả nhiều nuớc... Đặc điểm của thức ăn thô xanh là chứa nhiều nuớc, dễ tiêu hoá, có tính ngon miệng và gia súc thích ăn. Nói chung, thức ăn xanh có tỷ lệ cân đối giữa các chất dinh dưỡng, chứa nhiều vitamin và protein có chất luợng cao.
a. Cỏ tự nhiên và cỏ trồng
Cỏ tự nhiên là hỗn hợp các loại cỏ hoà thảo, chủ yếu là cỏ gà, cỏ lá tre, cỏ mật... Cỏ tự nhiên mọc trên các gò, bãi, bờ đê, bờ ruộng, trong vuờn cây, công viên... Cỏ tự nhiên có thể đuợc sử dụng cho bò sữa ngay trên đồng bãi duới hình thức chăn thả hoặc cũng có thể thu cắt về và cho ăn tại chuồng. Thành phần dinh dưỡng và chất luợng cỏ tự nhiên biến động rất lớn và tuỳ thuộc vào mùa vụ trong năm, nơi cỏ mọc, giai đoạn phát triển của cỏ (non hay già) và thành phần các loại cỏ trong thảm cỏ. Khi sử dụng cỏ tự nhiên cần luu ý tránh cho bò sữa bị rối loạn tiêu hoá hoặc ngộ độc bằng cách sau khi thu cắt về, phải rửa sạch cỏ để loại bỏ bụi bẩn, các hoá chất độc hại, thuốc trừ sâu... Loại cỏ còn non hoặc cỏ thu cắt ngay sau khi mua cần phải đuợc phơi tái để đề phòng bò sữa bị chuớng bụng đầy hơi.
Cỏ trồng bao gồm các loại nhu cỏ voi, cỏ Ghinê, cỏ Stylo ... Việc trồng cỏ rất quan trọng, đặc biệt là trong chăn nuôi thâm canh và chăn nuôi theo quy mô trang trại. Trồng cỏ bảo đảm chủ động có nguồn thức ăn thô xanh chất luợng và ổn định quanh năm.
Luợng cỏ cho bò sữa thay đổi tuỳ theo từng đối tuợng. Trung bình mỗi ngày có thể cho một con ăn đuợc một luợng cỏ tuơi bằng khoảng 10-12% thể trọng của nó.
b. Ngọn mía
Ngọn mía là phần ngọn thải ra sau khi thu hoạch thân cây mía làm đuờng. Thông thuờng ngọn mía chiếm 20% của cả cây mía. Nhu vậy, với năng suất mía bình quân 45-50 tấn/ha thì mỗi ha thải ra trên 9 tấn ngọn mía và số ngọn mía của mỗi ha có thể nuôi đuợc 4 con bò trên 3 tháng (cho mỗi con bò ăn 25 kg ngọn mía/ngày).
Hiện nay, tại những vùng ven sông, đặc biệt là những vùng quy hoạch mía đuờng của nuớc ta, hàng năm luợng ngọn mía thải ra rất lớn và ngọn mía là nguồn thức ăn xanh có giá trị, cần tận dụng và có thể dùng để nuôi bò sữa rất tốt. Tuy nhiên, vì ngọn mía chứa hàm luợng đuờng và xơ cao nhung lại nghèo các thành phần dinh dưỡng khác, do đó chỉ nên sử dụng ngọn mía nhu loại thức ăn bổ sung đuờng mà không nên thay thế hoàn toàn cỏ xanh trong một thời gian dài
c. Vỏ và đọt dứa
Vỏ và đọt dứa là nguồn phế phụ phẩm với khối luợng rất lớn, do các nhà máy chế biến dứa xuất khẩu thải ra. Vỏ và đọt dứa chứa nhiều đuờng nhung lại thiếu protein và xơ. Chính vì vậy, không nên sử dụng vỏ và đọt dứa thay thế hoàn toàn cỏ xanh. Mặt khác, trong vỏ dứa có chứa men bromelin nên khi bò sữa ăn nhiều sẽ bị rát lưỡi. Tốt nhất là nên cho bò ăn mỗi ngày khoảng 10-15 kg vỏ và đọt dứa và nên chia ra làm nhiều lần.
d. Cây ngô sau thu bắp non
Cây ngô sau khi thu bắp non (ngô bao tử hay ngô qươ) có thể dùng làm nguồn thức ăn xanh rất tốt cho trâu bò. Thành phần dinh dưỡng của cây ngô sau thu bắp non rất phù hợp với sinh lý tiêu hoá của trâu bò. Cây ngô loại này có thể dùng cho ăn trực tiếp hay ủ xanh để dự trữ cho ăn về sau.
2. Thức ăn ủ uớp
Là loại thức ăn đuợc tạo ra thông qua quá trình dự trữ các loại thức ăn thô xanh duới hình thức ủ chua. Nhờ ủ chua, nguời ta có thể bảo quản thức ăn trong một thời gian dài, chủ động có thức ăn cho bò sữa, nhất là vào những thời kỳ khan hiếm cỏ tự nhiên, với việc tổn thất ít nhất các chất dinh dưỡng so với quá trình phơi khô. Ngoài ra, ủ chua còn làm tăng tỷ lệ tiêu hoá của thức ăn, do các chất khó tiêu trong thức ăn bị mềm ra hoặc chuyển sang dạng dễ tiêu.
Thức ăn ủ chua tốt có những đặc tính sau:
- Có mùi thơm dễ chịu (nếu có mùi khó ngửi chứng tỏ bị thối hỏng).
- Có vị hơi chua, không đắng và không chua gắt.
- Mầu đồng đều, gần tuơng tự nhu mầu của cây truớc khi đem ủ (hơi nhạt hơn một chút).
- Không có nấm mốc.
- Gia súc thích ăn.
Về nguyên tắc nguời ta có thể ủ chua các loại thức ăn xanh, kể cả thức ăn hạt và củ quả, nhung thông thuờng nguời ta hay ủ chua thân, lá cây ngô, cỏ voi, cỏ tự nhiên và trong khi ủ thuờng cho thêm rỉ mật đuờng và muối.
Có thể sử dụng thức ăn ủ chua để thay thế một phần cỏ tuơi.Luợng thay thế khoảng 15-20 kg. Đối với bò sữa, nên cho ăn sau khi vắt sữa để tránh cho sữa có mùi cỏ ủ.
3. Cỏ khô
Cỏ khô là loại thức ăn thô xanh đã đuợc sấy khô hoặc phơi khô nhờ nắng mặt trời và đuợc dự trữ duới hình thức đánh đống hoặc đóng bánh. Đây là biện pháp bảo quản thức ăn dễ thực hiện, cho phép ta dự trữ với khối luợng lớn để dùng vào những thời điểm khan hiếm. Tuy nhiên, giá trị dinh dưỡng của cỏ khô luôn thấp hơn giá trị dinh dưỡng của cỏ ủ chua.
4. Rơm lúa
Rơm lúa là loại thức ăn thô đuợc dùng phổ biến cho trâu bò ở nuớc ta. Tỷ lệ giữa rơm và thóc thuờng biến động trong khoảng 0,7-1/1. Nhu vậy, với tình hình trồng lúa của nuớc ta hiện nay, mỗi năm chúng ta có thể thu đuợc khoảng 25-30 triệu tấn rơm. Nguồn phụ phẩm này hiện nay vẫn chua đuợc tận dụng một cách hiệu quả trong chăn nuôi loài nhai lại mà chủ yếu dùng làm chất đốt, phân bón, và thậm chí còn đốt cháy ngoài đồng gây lãng phí và ô nhiễm môi truờng. Thực tế, tuy rơm lúa chứa nhiều chất xơ lignin hoá khó tiêu hoá, nghèo protein và muối khoáng nhung sau khi thu hoạch, đuợc phơi khô dự trữ cẩn thận vẫn là nguồn thức ăn thô quý cho bò sữa.
Rơm lúa thuờng đuợc sử dụng để tăng luợng chất khô, đảm bảo độ choán dạ dầy, tăng luợng xơ trong khẩu phần, nhất là đối với những khẩu phần thiếu xơ. Do rơm lúa có giá trị dinh dưỡng và tỷ lệ tiêu hoá thấp nên hiện nay, nguời ta thuờng áp dụng một số biện pháp kiềm hoá rơm nhu ủ rơm với urê hay với dung dịch amoniac. Việc xử lý này không những làm tăng tỷ lệ tiêu hoá của rơm mà còn làm cho nó mềm hơn, bò sữa thích ăn hơn, đồng thời làm tăng hàm luợng nitơ trong rơm.
5. Củ quả
Thức ăn củ quả bao gồm khoai lang, khoai tây, cà rốt, củ cải, bầu, bí... Đây là loại thức ăn rất tốt cho bò sữa. Chúng có mùi thơm, vị ngon, gia súc thích ăn. Thức ăn củ quả có hàm luợng nuớc, chất bột đuờng và vitamin C cao. Hạn chế của chúng là nghèo protein, chất béo, xơ và các muối khoáng, khó bảo quản và dự trữ lâu dài.
Do những đặc tính trên nguời ta thuờng dùng thức ăn củ quả để cải thiện những khẩu phần ít nuớc, nhiều xơ, nghèo chất bột đuờng (ví dụ, khẩu phần nhiều rơm khô). Luợng thức ăn củ quả trung bình mỗi ngày khoảng 4-5 kg cho một con bò sữa.
6. Phụ phẩm chế biến
a. Bã đậu nành
Bã đậu nành là phụ phẩm của quá trình chế biến hạt đậu nành thành đậu phụ hoặc thành sữa đậu nành. Nó có mùi thơm, vị ngọt, gia súc thích ăn. Hàm luợng chất béo và protein trong bã đậu nành rất cao. Chính vì vậy, nó có thể đuợc coi là loại thức ăn cung cấp protein cho gia súc nhai lại và mỗi ngày có thể cho mỗi con bò ăn từ 10 đến 15 kg.
Cần luu ý khi sử dụng bã đậu nành sống cùng lúc với một số loại thức ăn có chứa urê (nhu bánh dinh dưỡng, thức ăn tinh hỗn hợp) là phải chia nhỏ luợng thức ăn này ra thành nhiều bữa để bảo đảm an toàn cho bò sữa. Vì trong bã đậu nành sống có chứa men phân giải urê nên nếu cho ăn cùng lúc và với số luợng lớn hai loại thức ăn này thì urê bị phân giải nhanh chóng, tạo ra một khối luợng lớn khí amoniac và rất dễ gây ngộ độc.
b. Bã bia
Bã bia là loại thức ăn nhiều nuớc, có mùi thơm và vị ngon. Hàm luợng khoáng, vitamin (chủ yếu là vitamin nhóm B) và đặc biệt là hàm luợng protein trong bã bia cao. Vì vậy, nó có thể đuợc coi là loại thức ăn bổ sung protein và đuợc dùng rất rộng rãi trong chăn nuôi bò sữa. Tỷ lệ tiêu hoá các chất trong bã bia rất cao. Ngoài ra nó còn chứa các chất kích thích tính thèm ăn và làm tăng khả năng tiết sữa của bò nuôi trong điều kiện nhiệt đới.
Thành phần và giá trị dinh dưỡng của bã bia phụ thuộc chủ yếu vào tỷ lệ nuớc của nó. Thời gian bảo quản cũng nhu nguồn gốc xuất xứ của bã bia cũng ảnh huởng đến chất luợng. Khi bảo quản lâu dài thì quá trình lên men sẽ làm mất đi một phần các chất dinh dưỡng, đồng thời làm cho độ chua của bã bia tăng lên. Chính vì vậy, trong thực tế, để kéo dài thời gian bảo quản bã bia, nguời ta thuờng cho thêm muối ăn với tỷ lệ 1%.
Đối với bò sữa, luợng bã bia trong khẩu phần cần tính toán làm sao có thể thay thế không quá 1/2 luợng thức ăn tinh (cứ 4,5 kg bã bia có giá trị tuơng đuơng với 1 kg thức ăn tinh) và không nên cho ăn trên 15 kg bã bia mỗi con, mỗi ngày. Cho ăn quá nhiều bã bia (ví dụ trên 25 kg/con/ngày) sẽ làm giảm tỷ lệ tiêu hoá chất xơ, các chất chứa nitơ và kéo theo sự giảm chất luợng sữa. Tốt nhất là trộn bã bia và cho ăn cùng với thức ăn tinh, chia làm nhiều bữa trong một ngày.
c. Bã sắn
Bã sắn là phế phụ phẩm của quá trình chế biến tinh bột sắn từ củ sắn. Bã sắn có đặc điểm là chứa nhiều tinh bột (khoảng 60%) nhung lại nghèo chất protein. Do đó khi sử dụng bã sắn nên trộn và cho ăn thêm urê hoặc bã đậu nành. Nếu cho thêm bột sò hay bột khoáng vào hỗn hợp thì chất luợng dinh dưỡng sẽ tốt và cân đối hơn. Hỗn hợp này có thể đuợc sử dụng để thay thế một phần (có thể thay thế tới một nửa) luợng thức ăn tinh trong khẩu phần.
Bã sắn có thể dự trữ đuợc khá lâu do một phần tinh bột trong bã sắn bị lên men và tạo ra pH = 4-5. Bã sắn tuơi có vị hơi chua, gia súc nhai lại thích ăn. Vì vậy có thể cho gia súc ăn tuơi (mỗi ngày cho mỗi con bò ăn khoảng 10-15 kg). Cũng có thể phơi, sấy khô bã sắn để làm nguyên liệu phối chế thức ăn hỗn hợp
d. Rỉ mật đường
Rỉ mật đuờng là phụ phẩm của quá trình chế biến đuờng mía. Luợng rỉ mật thuờng chiếm 3% so với mía tuơi. Cứ chế biến 1000 kg mía thì nguời ta thu đuợc 30 kg rỉ mật. Nhu vậy, từ một ha mía mỗi năm thu đuợc trên 1300 kg rỉ mật. Do chứa nhiều đuờng nên rỉ mật là nguồn cung cấp năng luợng quan trọng. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều nguyên tố khoáng đa luợng và vi luợng rất cần thiết cho bò sữa.
Rỉ mật thuờng đuợc sử dụng để bổ sung đuờng khi ủ chua thức ăn, là thành phần chính trong bánh dinh dưỡng hoặc cho ăn lẫn với rơm lúa ... Do có vị ngọt nên bò sữa thích ăn. Tuy nhiên, mỗi ngày cũng chỉ nên cho mỗi con bò ăn 1-2 kg rỉ mật đuờng. Không nên cho ăn nhiều trên 2 kg vì rỉ mật đuờng nhuận tràng và có thể gây ỉa chảy. Nên cho ăn rải đều để tránh làm giảm pH dạ cỏ đột ngột gây ức chế vi sinh vật phân giải xơ trong dạ cỏ.
e. Khô dầu
Khô dầu là một nhóm các phụ phẩm còn lại sau khi chiết tách dầu từ các loại hạt có dầu và từ cơm dừa, bao gồm: khô dầu lạc, khô dầu đậu tuơng, khô dầu bông, khô dầu vừng, khô dầu dừa... Khô dầu là loại sản phẩm rất sẵn có ở nuớc ta và đuợc xem nhu là loại thức ăn cung cấp năng luợng và bổ sung protein cho bò sữa. Hàm luợng protein và giá trị năng luợng trong khô dầu tuỳ thuộc vào công nghệ tách chiết dầu cũng nhu nguyên liệu ban đầu. Nhìn chung, khô dầu đậu tuơng, khô dầu lạc thuờng chứa ít canxi, phốtpho, vì vậy khi sử dụng cần bổ sung thêm khoáng.
Có thể cho bò sữa ăn khô dầu riêng rẽ hoặc phối chế khô dầu với một số loại thức ăn khác thành thức ăn tinh hỗn hợp.
f. Cám gạo
Cám gạo là phụ phẩm của xay xát gạo và đuợc dùng phổ biến trong chăn nuôi gia súc nhai lại. Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của cám gạo phụ thuộc vào quy trình xay xát thóc, thời gian bảo quản cám. Cám gạo còn mới có mùi thơm, vị ngọt, gia súc nhai lại thích ăn. Nhung cám để lâu, nhất là trong điều kiện bảo quản kém, dầu trong cám sẽ bị oxy hoá, cám trở nên ôi, khét, có vị đắng, thậm chí bị vón cục, bị mốc và không dùng đuợc nữa.
Cám gạo có thể đuợc coi là loại thức ăn cung cấp năng luợng và protein. Tuy nhiên, không nên chỉ sử dụng cám gạo trong khẩu phần, bởi vì hàm luợng canxi trong cám gạo rất thấp. Cần bổ sung bột xuơng, bột sò và muối ăn vào khẩu phần chứa nhiều cám gạo.
g. Bột cá
Bột cá là thức ăn động vật có chất luợng dinh dưỡng cao đuợc chế biến từ cá tuơi hoặc từ sản phẩm phụ công nghiệp chế biến cá hộp.Trong protein bột cá có đầy đủ axit amin không thay thế: lyzin 7,5%; methionin 3%; izolơxin 4,8%... Protein bột cá sản xuất ở nuớc ta biến động từ 35-60%, khoáng tổng số biến động từ 19,6%-34,5% trong đó muối: 0,5-10%, canxi 5,5-8,7%; phốt pho 3,5-4,8%, các chất hữu cơ trong bột cá đuợc gia súc, gia cầm tiêu hoá và hấp thu với tỷ lệ cao 85-90%.
Bổ sung bột cá vào các loại thức ăn xơ thô có tác dụng rất tốt nhờ kích thích VSV dạ cỏ phát triển và bổ sung protein thoát qua. Bột cá đuợc phân giải chậm trong dạ cỏ nên góp phân cung cấp một số axit amin, đặc biệt là những axit amin có mạch nhánh rất cần cho VSV phân giải xơ. Vì bột cá có tỷ lệ protein thoát qua cao nên có thể cung cấp trực tiếp axit amin tại ruột (PDA) cho vật chủ. Thí nghiệm ở Bangladesh cho thấy chỉ cần bổ sung 50g bột cá vào khẩu phần cơ sở là rơm có tác dụng làm tăng tỷ lệ tiêu hoá rơm và tăng tốc độ tăng trọng của bê rất rõ rệt.
h. Bột thịt xitơng
Bột thịt xuơng đuợc chế biến từ xác gia súc, gia cầm không dùng làm thực phẩm cho con nguời hoặc từ các phụ phẩm của lò mổ. Thành phần dinh dưỡng của bột thịt xuơng thuờng không ổn định, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu chế biến. Tỷ lệ protein trong bột thịt xuơng từ 30-50%, khoáng 12-35%, mà 8-15%. Giá trị sinh học của protein trong bột thịt xuơng cũng biến động và phụ thuộc vào tỷ lệ các mô liên kết trong nguyên liệu. Tỷ lệ mô liên kết càng nhiều, giá trị sinh học của protein càng thấp.
i. Hạt bông
Hạt bông có hàm luợng protein và lipit cao nên có thể đuợc coi là một loại thức ăn tinh. Nhung mặt khác, xơ của nó tuơng đuơng với cỏ nếu xét về mức độ tiêu hoá ở dạ cỏ. Phản ứng của gia súc khi bổ sung hạt bông thay đổi rất lớn phụ thuộc vào khẩu phần cơ sở. Tỷ lệ phân giải cao của protein hạt bông làm cho hàm luợng amoniac trong dạ cỏ tăng cao. Năng luợng gia nhiệt của hạt bông thấp nên có lợi khi cho gia súc ăn trong điều kiện nhiệt độ môi truờng cao. Tuy nhiên, do có hàm luợng lipit cao và có độc tố gosypol nên có thể ảnh huởng xấu đến hoạt lực của vi sinh vật dạ cỏ và hạn chế mức sử dụng.
Hiện nay nguời ta đề nghị mức bổ sung chỉ duới 150g/kg thức ăn của khẩu phần. Chế biến, đặc biệt là xử lý nhiệt, có thể làm tăng tỷ lệ lipit và protein không bị phân giải ở dạ cỏ và giảm gosypol tự do trong hạt bông nên có thể tăng mức sử dụng trong khẩu phần. Nghiền và kiềm hoá có thể làm tăng tỷ lệ tiêu hoá của hạt bông.
7. Thức ăn tinh
Là những thức ăn có khối luợng nhỏ nhung hàm luợng chất dinh dưỡng cao. Nhóm thức ăn này bao gồm các loại hạt ngũ cốc và bột của chúng (ngô, mì, gạo...), bột của các cây có củ, các loại hạt cây bộ đậu và các loại thức ăn tinh hỗn hợp đuợc sản xuất công nghiệp.
Đặc điểm của thức ăn tinh là hàm luợng nuớc và xơ đều thấp, chứa nhiều chất dinh dưỡng quan trọng nhu protein, chất bột đuờng, chất béo, các chất khoáng và vitamin. Tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng khá cao.
Thông thuờng, nguời ta sử dụng thức ăn tinh để hoàn thiện các loại khẩu phần ăn cấu thành từ các thức ăn thô. Mặc dù thức ăn tinh có hàm luợng các chất dinh dưỡng cao nhung không thể chỉ dùng một mình nó để nuôi bò sữa mà phải dùng cả các loại thức ăn thô để bảo đảm cho quá trình tiêu hoá diễn ra bình thuờng.
a. Bột ngô
Bột ngô là loại thức ăn tinh quan trọng trong chăn nuôi bò sữa. Bột ngô có hàm luợng tinh bột cao và đuợc sử dụng nhu một nguồn cung cấp năng luợng. Tuy nhiên, cũng nhu cám gạo, không nên chỉ sử dụng bột ngô nhu một nguồn thức ăn tinh duy nhất, mà phải trộn thêm bột xuơng, bột sò và muối ăn vào khẩu phần, bởi vì hàm luợng các chất khoáng, nhất là canxi và phốtpho trong bột ngô thấp.
b. Bột sắn
Bột sắn đuợc sản xuất ra từ sắn củ thái thành lát và phơi khô. Bột sắn là loại thức ăn tinh giàu chất đuờng và tinh bột, nhung lại nghèo chất protein, canxi và phốtpho. Vì vậy, khi sử dụng bột sắn cần bổ sung thêm urê, các loại thức ăn giầu protein nhu bã đậu nành, bã bia và các chất khoáng... để nâng cao giá trị dinh dưỡng của khẩu phần và làm cho khẩu phần cân đối hơn.
Bột sắn là loại thức ăn rẻ, lát sắn phơi khô có thể bảo quản dễ dàng quanh năm. Một điểm bất lợi của sắn là có chứa axit HCN độc đối với gia súc. Để làm giảm hàm luợng của loại axit này nên sử dụng củ sắn bóc vỏ, ngâm vào nuớc và thay nuớc nhiều lần truớc khi thái thành lát và phơi khô. Cũng có thể nấu chín để loại bỏ HCN.
8. Thức ăn bổ sung
Là những thức ăn đ-ợc thêm vào khẩu phần với số l-ợng nhỏ để cân bằng một số chất dinh d-àng thiếu hụt nh- protein, khoáng và vitamin. Trong số các loại thức ăn bổ sung quan trọng nhất là urê và hỗn hợp khoáng.
a. Urê
Urê là một trong những chất chứa nitơ phi protein
đã đuợc sử dụng từ lâu và rất rộng rãi trong chăn nuôi trâu bò nói chung và bò sữa nói riêng. Sở dĩ loài gia súc nhai lại sử dụng đuợc urê bởi vì, trong dạ cỏ của chúng có các quần thể vi sinh vật có khả năng biến đổi, phân giải nitơ trong urê và tổng hợp nên các chất protein có giá trị sinh vật học cao cung cấp cho cơ thể.
Nguời ta có thể sử dụng urê theo 4 cách: trộn vào thức ăn hỗn hợp, trộn với rỉ mật đuờng, trộn với một số thành phần làm bánh dinh dưỡng và trộn ủ với cỏ hoặc rơm. Khi sử dụng urê cần chú ý những vấn đề sau đây:
- Chỉ bổ sung urê khi khẩu phần cơ sở thiếu N cần cho VSV dạ cỏ. Chú ý, bổ sung 1 g urê cung cấp thêm đuợc 1,45 g PDIN.
- Phải đảm bảo có đầy đủ gluxit dễ lên men trong khẩu phần của bò nhằm giúp cho vi sinh vật dạ cỏ có đủ năng luợng để sử dụng amoniac phân giải ra từ urê và tổng hợp nên protein vi sinh vật.
- Đối với những con bò truớc đó chua ăn urê thì cần có thời gian tập làm quen bằng cách hàng ngày cho ăn từng ít một và thời gian làm quen kéo dài từ 5 đến 10 ngày.
- Chỉ sử dụng urê cho bò đã lớn, không sử dụng cho bê non vì hệ vi sinh vật dạ cỏ của chúng chua phát triển hoàn chỉnh.
- Khi bổ sung urê vào khẩu phần có thể bò sữa không thích ăn, vì vậy cần trộn urê với một số loại thức
ăn khác. Có thể cho thêm rỉ mật đuờng để gia súc dễ ăn và cho ăn làm nhiều lần trong ngày, mỗi lần một ít.
- Không hoà urê vào nuớc cho bò uống.
b. Thức ăn bổ sung khoáng
Các chất khoáng có vai trò rất quan trọng đối với gia súc nhai lại, đặc biệt là đối với bò sữa. Do thức ăn của bò sữa có nguồn gốc thực vật, nên khẩu phần thuờng thiếu các chất khoáng, kể cả khoáng đa luợng và khoáng vi luợng. Để bổ sung khoáng đa luợng canxi nguời ta thuờng dùng bột đá vôi, bột sò. Để bổ sung phốt pho dùng bột xuơng, phân lân nung chảy hoặc đicanxi phốtphát. Các loại khoáng vi luợng (coban, đồng, kẽm...) thuờng đuợc dùng duới dạng muối sulphát (sulphát coban, sul phát đồng, sulphát kẽm ...).
Trong thực tế, việc cung cấp từng chất khoáng riêng rẽ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với loại khoáng vi luợng là những chất rất cần thiết nhung chỉ cần với số luợng nhỏ nên rất khó bảo đảm định luợng chính xác. Vì vậy, nguời ta thuờng phối hợp nhiều loại khoáng với nhau theo tỷ lệ nhất định duới dạng premix khoáng, dùng để trộn với các loại thức ăn tinh. Nguời ta cũng có thể bổ sung khoáng cho bò sữa duới dạng đá liếm.
Thành phần dinh dưỡng của một số loại thức ăn phổ biến dùng cho bò sữa ở miền Bắc có thể xem trong phần Phụ lục.