Giải pháp cho hộ nông dân
Dự án bò sữa Việt-Bỉ
Ông Hoàng Kim Giao – Giám đốc dự án cho biết, sau 5 năm hoạt động, dự án đã góp phân tăng tổng sản lượng sữa ở khu vực Hà Nội (mở rộng) Vĩnh Phúc, Hà Nam và Bắc Ninh tới 42%. Với chất lượng sữa được cải thiện, giá thu mua của các nhà máy chế biến từ năm 2005 đến nay tăng 100%, lên 7.500 đồng/kg; đáp ứng 28% nhu cầu sữa trong nước. Từ nay đến năm 2020 sẽ nâng tổng đàn bò sữa lên 500.000 con để đáp ứng 40% nhu cầu sữa, qua đó giảm nhu cầu nhập khẩu sữa (hiện nay 72%) xuống dưới 60%.
Năm 2005, khi bắt đầu thực hiện dự án nhiều nông dân cho biết không còn muốn nuôi bò sữa vì lợi nhuận thấp. Do đó, tiêu chí đặt ra của dự án là nâng cao thu nhập cho nông dân bằng cách hướng dẫn các phương pháp chăn nuôi khoa học để cải thiện chất lượng và sản lượng sữa. Từ mục tiêu đó, cách làm của dự án là giúp đỡ cho nông dân có được nhiều sữa hơn từ con bò mà họ đang có thay vì cấp tiền để tăng đàn bò.
Khẩu hiệu nộ nghĩnh “Bò hạnh phúc cho nhiều sữa hơn” là nền tảng đầu tiên và dễ hiểu để nông dân tiếp cận cách chăn nuôi khoa học. Bằng phương pháp so sánh trực quan, cán bộ kỹ thuật cảu dự án hỏi: “Khi bạn vui vẻ thì bạn cảm thấy thế nào?”. Nông dân trả lời: “Tôi làm việc hăng hái hơn”. Con bò cũng tương tự như vậy, khi cảm thấy thoải mái, nó sẽ tiết ra sữa nhiều hơn”.
Đầu tiên, nông dân được hướng dẫn làm mới hoặc cải tạo lại chuồng trại: chuồng thấp, nhỏ thì nâng cao và mở rộng; lắp đặt giàn phun nước trên mái, giúp giảm nhiệt vào trưa hè khiến bò cảm thấy dễ chịu. Sau đó là hướng dẫn thay đổi cách trồng cỏ nuôi bò, thay loại cỏ voi thường được nông dân tròng bằng các loại cỏ của Úc, cỏ Avex, Lông Para… có hàm lượng dinh dưỡng cao. Sự thay đổi nhỏ nhưng khác với cách nuôi truyền thống, đã giúp nâng cao sản lượng sữa, khiến nhiều nông dân ngày càng tin tưởng vào các phương pháp hưỡng dẫn mà dự án đã mang lại.
Kết quả việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào chăn nuôi bò sữa ở những hộ tham gia dự án tăng lên đáng kể: có 90% số hộ sử dụng túi ủ chuam 63% trồng những giống cỏ mới, 50% lắp đặt hệ thống stress nhiệt, 41% lắp hệ thóng tưới cỏ, 28% áp dụng phương pháp nuôi bê mới và 23% lắp đặt máng uống tự động.
Minh Phương