Cấu tạo hệ thống sinh sản
Sinh sản của gia súc cái
Hiểu biết chắc chắn về sinh lý sinh sản ở bò cái tạo cho những người chăn nuôi có thể điều khiển và cải thiện năng suất sinh sản của bò. Cải tiến trong quản lý sinh sản có thể làm tăng hiệu quả kinh tế cho những người chăn nuôi bò.
GIẢI PHẪU CƠ QUAN SINH DỤC BÒ CÁI
Buồng trứng
Cơ quan sinh dục sơ cấp của con cái là buồng trứng. Buồng trứng có hai chức năng: sản xuất tế bào sinh dục và hocmon. Các tế bào sinh dục của con cái gọi là trứng. Ở bò một buồng trứng có hơn 100.000 trứng lúc mới sinh. Tuy nhiên trong suốt đời của một con bò cái chỉ một số lượng nhỏ trứng sẽ được thụ tinh và phát triển thành bê. Hocmon được tiết ra từ buồng trứng điều khiển mức độ biểu hiện tính dục, sinh trưởng và các quá trình phát triển. Chúng sẽ được thảo luận chi tiết sau.
Phần lớn điều khiển về sinh sản liên quan đến điều khiển buồng trứng.
Hình 1. Đường sinh dục của bò cái
Kích thước và hình dáng của buồng trứng ở bò rất đa dạng. Những người khám thai có kinh nghiệm có khả năng cảm nhận được buồng trứng của bò khi sờ nắn qua trực tràng. Buồng trứng có kích thước bằng hạt đậu Hà Lan và ở những bê chưa thành thục về tính chúng có kích thước nhỏ hơn. Khi bắt đầu thành thục về tính chúng dài khoảng 2 cm. Sau giai đoạn này kích thước và hình thái của chúng rất thay đổi. ở bò thành thục về tính trung bình buồng trứng có kích thước và hình thái tương tự hạt hạnh nhân.
Đường sinh dục
Âm hộ: là phần có thể nhìn thấy được ở đường sinh dục cái, nó nằm ngay dưới hậu môn và bảo vệ cửa vào âm đạo. Âm đạo dài khoảng 24-26 cm ở hầu hết bò cái đã thành thục về tính và có hình ống. Lúc giao phối tinh dịch đọng lại trong âm đạo gần cổ tử cung. Cổ tử cung là cơ quan hình ống có cơ dày nối âm đạo với các bộ phận khác của đường sinh dục, những người khám có kinh nghiệm có thể cảm nhận được chúng dễ dàng qua sỡ nắn trực tràng.
Ở những bê cái tơ chưa thành thục về tính đường kính của cổ tử cung có thể <10 mm. Ở thời kỳ thành thục về tính cổ tử cung ở phần lớn bò cái tơ có đường kính là 12 cm. Ở những bò cái lớn tuổi hơn đường kính cổ tử cung có thể lên đến 6cm hoặc hơn và dài 15 cm hoặc hơn. Cổ tử cung có kích thước tăng lên theo tuổi và số lượng bê mà bò mẹ đã đẻ và có khuynh hướng lớn hơn ở giống bò có nguồn gốc từ Bos indicus. Cổ tử cung có tác dụng là hàng rào chắn bảo vệ nằm giữa âm đạo và các tổ chức mô khác của tử cung.
Tử cung được chia thành hai sừng tử cung, chúng cách cổ tử cung khoảng 2-4 cm. Sừng tử cung xoắn về phía trước và phía dưới và có thể dài đến 40 cm. Bê con sẽ phát triển trong sừng tử cung sau khi trứng thụ tinh ở trong ống dẫn trứng (hay vòi fallop). Ống dẫn trứng nối liền loa kèn với sừng tử cung và phần còn lại của đường sinh dục. Buồng trứng được loa kèn bao quanh, loa kèn thu hút trứng được giải phóng từ buồng trứng và dẫn trực tiếp vào trong vòi fallop. Toàn bộ cơ quan sinh dục được cố định nhờ một mảnh tổ chức gọi là dây chằng rộng. Dây chằng này cũng bám vào trực tràng.
Sinh sản đạt kết quả tốt liên quan đến chu kỳ động dục (động dục đều) giao phối, thụ thai (trứng thụ tinh), chửa, đẻ và tiết sữa (cho bê bú sữa).
Mỗi một thời kỳ trong các giai đoạn này đều được điều khiển bằng hormone. Hormone là các chất dẫn truyền thông tin hoá học được giải phóng vào trong máu và tác dụng đến phần khác của cơ thể. Hormone sinh dục cái được giải phóng từ buồng trứng và từ tuyến nội tiết nằm ở mặt dưới não - tuyến yên. Hormone được giải phóng từ tuyến yên chịu sự điều khiển của cơ chế thông tin ngược, với sự tham gia của các hormone giải phóng từ buồng trứng và các thông tin nhận được từ não bộ. Các thông tin từ bộ phận não cao cấp hơn chịu ảnh hưởng của điều kiện cơ thể, mức dinh dưỡng và các tín hiệu khác.
Chu kỳ động dục
Trong buồng trứng của bò, trứng phát triển liên tục trong suốt cả đời thành các mụn nước chứa đầy dịch gọi là noãn nang. Mỗi một trứng mất khoảng 6 tháng để phát triển. Phần lớn trứng không phát triển đầy đủ và bị tái hấp thu đi một cách đơn giản. Sự phát triển của trứng đến khi thành thục về tính không cần có hormone của não. Sau khi thành thục về tính, hormone được tuyến yên ở não tiết ra làm cho một số trứng được chọn lọc phát triển đầy đủ và giải phóng khỏi buồng trứng có nghĩa là rụng trứng. Noãn nang có thể có đường kính 10-15 mm ngay trước khi rụng trứng. Phần lớn các noãn nang khác đường kính chỉ đạt 1-2 mm trước khi bị tái hấp thu. Tỷ lệ thụ tinh cao nhất ở bò cái tơ động dục lần thứ 2 hoặc thứ 3. Mặc dù một số bò cái tơ sẽ thụ tinh ở lần động dục đầu tiên và sẽ có thai nếu cho phối giống. Chu kỳ động dục điển hình ở bò là 21 ngày, tuy nhiên có thể giao động trong phạm vi 18-24 ngày.
Sự thành thục về tính
Sự thành thục về tính được định nghĩa là tuổi hoặc thời kỳ phát triển, mà tại thời điểm đó gia súc có thể sinh sản được có nghĩa là đã thành thục về tính. Tuổi thành thục về tính ở bò cái tơ rất thay đổi giữa các cá thể, giống và các điều kiện khác nhau, đặc biệt là dinh dưỡng.
Hình 2. Khối lượng bò cái tơ lai Brahman ở nam Australia lúc thành thục về tính (G.Fordyce, DPI Queensland, chưa xuất bản)
Ở vùng ôn đới của Australia có khí hậu ôn hoà, điều kiện nói chung thuận lợi bò có tốc độ sinh trưởng nhanh, bò cái tơ thành thục ở khối lượng thấp hơn và ở tuổi nhỏ hơn so với môi trường nhiệt đới khắc nghiệt hơn như môi trường ở miền bắc Australia.
Ghép đôi giao phối lúc khoảng 1 năm tuổi (thường từ 13-17 tháng tuổi) có thể là sự lựa chọn thực tế và mong muốn trong các điều kiện bò sinh trưởng tốt. Bò cái có "khối lượng giao phối tốt nhất" là 280 kg đối với phần lớn giống bò của Anh được dùng làm chỉ số mà tại đó phần lớn bò cái tơ đạt được thành thục về tính. Chỉ số này được sử dụng vì ở khối lượng này 85% bò cái tơ hoặc hơn sẽ bắt đầu động dục nếu lớn lên trong các điều kiện dinh dưỡng tốt. Sự chênh lệch về khối lượng khi bò cái tơ bắt đầu động dục rất ít: 25 kg trong các điều kiện tốc độ sinh trưởng nhanh. Tình hình này rất khác ở các vùng nhiệt đới khắc nghiệt. Trong các vùng này nghiên cứu của DPI (Bộ Nông nghiệp Bang Queensland) cho thấy có sự biến động lớn về khối lượng khi bắt đầu thành thục về tính: 100 kg (tham khảo hình 2). Động dục lần đầu được phát hiện ở 95% gia súc có khối lượng nằm trong khoảng 175-375kg và tuổi nằm trong khoảng 13-33 tháng. Nói chung điều kiện càng khó khăn và dinh dưỡng càng nghèo, thời gian bắt đầu thành thục về tính càng k o dài. Lần động dục đầu tiên thường ở khối lượng và tuổi cao hơn nhiều trong các điều kiện nghèo dinh dưỡng so với các điều kiện tốt hơn.
Tuổi bắt đầu thành thục về tính trung bình ở bò lai Brahman ở Bắc Queensland là 20,5 tháng và khối lượng 285 kg như vậy ở khối lượng này chỉ 1/2 số gia súc bắt đầu động dục. Tuy nhiên do khối lượng lớn hơn thường đạt được vào đầu mùa ẩm ướt, phần lớn bê cái lỡ sẽ đủ lớn để thành thục về tính và được cho giao phối thành công vào cuối mùa mưa. Khối lượng trung bình lúc thành thục về tính ở mùa vụ thuận lợi ở Swans Lagoon là khoảng 250 kg và ở mùa không thuận lợi là khoảng 300 kg. ở miền Bắc Australia gh p đôi giao phối lúc bò dưới 18 tháng, bò cái tơ Bos indicus là 20-30% có thai trong thời kỳ gh p đôi giao phối 3 tháng. Tỷ lệ này dao động trong khoảng 20-80% phụ thuộc vào mùa vụ và chăm sóc quản lý. Bổ sung thức ăn ở mức thấp có thể làm tăng tỷ lệ thụ thai 15%. ở các môi trường thuận lợi hơn tỷ lệ thụ thai có kết quả đạt 70-90% ở thời kỳ gh p đôi giao phối ngắn.
Ghép đôi giao phối
Giao phối lúc bò cái động dục là lúc bò cái tiếp nhận, tìm kiếm và thu hút con đực. Động dục bình thường kéo dài khoảng 6-30 giờ. Bò cái Bos indicus và bò ở các môi trường nóng hơn có xu hướng thể hiện các biểu hiện động dục trong thời gian ngắn hơn.
Trong thời kỳ động dục con cái biểu hiện các dấu hiệu điển hình về các hành vi này do khối lượng lớn oestrogen tiết ra từ các noãn nang trước khi rụng trứng tác động đến não gây ra. Các dấu hiệu này là: Bồn chồn, nhảy lên các bò cái khác, đứng yêu cho con khác nhảy lên, từ tử cung và tử cung giải phóng một lượng niêm dịch dạng sợi trong suốt được xem là các sợi thu hút con đực. Các biểu hiện bên ngoài về hoạt động tính dục có thể nhìn thấy được là âm hộ trở nên sưng, đỏ, lông và đuôi xù lên, có các vết cọ sát ở phần đầu của đuôi và các xương đuôi nhỏ.
Hình 3. Phôi bò
Thụ thai
Thụ thai là sự thụ tinh thành công của một trứng bởi một tinh trùng sau khi rụng trứng. Rụng trứng do luternizing hormone (LH) được giải phóng từ tuyến yên ở não gây ra. Rụng trứng thường xảy ra khoảng 12 giờ sau khi các biểu hiện động dục kết thúc. Tuy nhiên giới hạn này có thể nằm trong khoảng 2-26 giờ. Rụng trứng chậm sau khi kết thúc biểu hiện động dục bảo đảm rằng tinh trùng đã ở trong đường sinh dục con cái ít nhất 1-6 giờ trước khi trứng chuyển xuống ống dẫn trứng để thụ tinh. Thời gian này cho ph p tinh trùng trải qua một quá trình tăng hoạt lực, quá trình này giúp cho sự thụ tinh xảy ra. Quá trinh fnày nhằm thay đổi cấu trúc đầu tinh trùng làm cho nó có khả năng thụ tinh một tế bào trứng có hiệu quả.
Sự thụ tinh cần phải xảy ra trong vòng 6 giờ sau khi rụng trứng. Sau thời gian này trứng không được thụ tinh sẽ thoái hoá hoặc nếu được thụ tinh thì hợp tử cũng không có khả năng sống. Sau khi thụ tinh hợp tử mất 6-7 ngày để chuyển xuống ống dẫn trứng đi vào trong sừng tử cung và cấy vào đó.
Sau khi rụng trứng, khoảng trống do noãn nang rụng đi để lại ở trong buồng trứng được lấp đầy bởi các tổ chức có màu da cam hơi vàng, và sau 5 ngày hình thành thể vàng. Thể vàng sản sinh ra progesterone cần thiết để duy trì thai. Sau 5-6 tháng thai nghén các cấu trúc khác như nhau thai sản xuất đủ progesterone để duy trì thai cho đến sau khi sinh. Progesterone cũng tác động đến não, ức chế giải phóng hormone tuyến yên và ngăn cản bò có thai động dục.
Nếu bò cái không có thai, tử cung sẽ giải phóng prostaglandin khoảng 16-17 ngày sau khi rụng trứng. Các prostaglandin làm tiêu tan thể vàng và như vậy ngăn cản sự sản xuất tiếp tục progesterone. Tiếp theo đó hormone kích thích noãn nang (FSH) được giải phóng từ tuyến yên bò và làm cho chu kỳ động dục mới bắt đầu. FSH có thể tạo khả năng cho một hoặc nhiều noãn nang đang phát triển có kích thước nhỏ (đường kính 1-2 mm) lớn lên đủ kích thước để rụng trứng.
Một con cái sẽ tiếp tục chu kỳ động dục 21 ngày một lần trừ khi nó có thai hoặc chịu stress về dinh dưỡng làm cho não giảm sản xuất hormone từ tuyến yên.
Chửa
Phôi thai rời khỏi ống dẫn trứng và đi vào tử cung vào ngày thứ 6 hoặc thứ 7. Một số ngày sau đó phôi bám vào vách tử cung. Sau đó phôi giải phóng ra các tín hiệu hoá học nhắc nhở các hệ thống ở bò cái về sự hiện diện của nó. Điều này ngăn cản tử cung bò giải phóng prostaglandin làm tiêu tan thể vàng, chấm dứt việc chửa. Không phải toàn bộ sự thụ thai đều đưa đến có chửa. Bình thường khoảng 25% phôi bị mất đi trong vòng 17 ngày từ khi thụ thai. Điều này có thể là do khuyết tật nhỏ về di truyền hoặc phôi không có khả năng chuyển được các tín hiệu hoá học mạnh đến hệ thống hormone của bò. Trên thực tế một tỷ lệ có thai 75% là tỷ lệ có thể đạt được ở một chu kỳ động dục đơn. Điều này giải thích tại sao 3 chu kỳ động dục hoặc nhiều hơn (tối thiểu 9 tuần) là cần thiết để đạt được tỷ lệ có thai 95%. Tỷ lệ phôi chết tăng lên trong vòng 17 ngày sau khi thụ thai có thể do bò cái chịu stress từ nhiệt độ không bình thường, nghèo dinh dưỡng hoặc mắc bệnh. Trong phần lớn trường hợp mất phôi sớm được xem là không thụ thai vì bò cái sẽ động dục trở lại ở thời điểm bình thường.
Tỷ lệ không có chửa sau 17 ngày không nên vượt quá 3% nếu không có chửa quá mức này cần phải được điều tra vì có thể liên quan đến các bệnh: phẩy khuẩn (vilriosis) bệnh Trichomonas (Trichomonasis), bệnh Lepto (Leptospirosis).
Bò cái có thời gian chửa trung bình là 283 ngày, bình thường khoảng 275-295 ngày. Một số giống như Jersey có thời gian chửa ngắn hơn trong khi các giống Châu âu có thời gian chửa dài hơn. Bò Bos indcus chửa dài nhất khoảng 290 ngày. Chửa bê đực thường dài hơn chửa bê cái 1 hoặc 2 ngày.
Chửa sinh đôi xảy ra khoảng 2 trong 1000 lần sinh đẻ ở bò Bos indicus và con lai của chúng, nhưng lên đến 30 trong 1000 lượt sinh đẻ ở bò sữa, 90% trường hợp chửa sinh đôi máu đến nuôi dưỡng bê là chung cho cả hai. Nếu một bê là đực và một bê là cái, hormone do phôi thai đực sản xuất giữa ngày thứ 80 và ngày thứ 120 trong giai đoạn có chửa có thể làm rối loạn sự phát triển của cơ quan sinh dục bê cái dẫn đến tình trạng được gọi là bất dục (freemartin). Freemertin có tính đực ở bên ngoài và thường mất một số phần ở đường sinh dục. Bê Freemertin không có khả năng sinh sản và cần phải loại thải. 10% trong các bê sinh đôi có 2 giới tính hỗn hợp có thể phát triển thành con cái bình thường.
Đẻ
Đẻ hay sinh lần đầu tiên bắt đầu do bê chứ không do phải bò mẹ: khi đạt đến một giai đoạn phát triển nhất định, não bê giải phóng các hormone gây stress gọi là corticosteroid hormone và hormone này gây ra quá trình sinh đẻ, đẻ cũng một phần do di truyền quyết định. Thời điểm đẻ thích hợp có khả năng được kế thừa. Điều này có nghĩa là thời gian chửa có thể thay đổi bằng sự chọn lọc.
Quá trình sinh đẻ có sự tham gia và điều khiển của nhiều hormone. Giải phòng hormone corticosteroid ở bê làm cho tử cung bò mẹ giải phóng prostaglandin. Prostaglandin làm tiêu tan thể vàng, làm dãn cổ tử cung và gây co bóp tử cung.
Hormone relaxin làm dãn dây chằng vùng chậu, chính hormone này làm cho bò cái đi lại kém vững chắc hơn và đuôi dường như nâng cao hơn khi bò cái "đứng bật dậy". Oxytocin gây co bóp tử cung mạnh hơn xảy ra ở thời kỳ cuối của giai đoạn đẻ. Oxytocin cũng là hormone làm tăng thêm sữa.
Khi đẻ phần lớn bê xuất hiện chân trước duỗi ra và đầu tựa lên chân trước hoặc nằm giữa 2 chân trước. Nếu các chân sau ra trước đó là đẻ ngôi nông. Quá trình đẻ hoàn thành khi nhau thai được đẩy ra ngoài.
Phần lớn bê chết trong vòng 1 tuần sau khi sinh. Tỷ lệ chết của bê lên đến 10% trong khoảng thời gian từ khi kiểm tra xác định có chửa đến khi cai sữa, có thể xảy ra ở các môi trường khắc nghiệt. Bê chết do nhiều nguyên nhân khác bao gồm: bê chết khi sinh ra hoặc yếu do đẻ khó, bệnh tật và các nhân tố stress khác hoặc nuôi dưỡng bò mẹ không đầy đủ dẫn đến thiếu sữa.
Tiết sữa
Khả năng tiết sữa của con mẹ là nhân tố quyết định chủ yếu sự sống sót của bê và khối lượng cai sữa ở bê. Yêu cầu về thức ăn và năng lượng của bò cái ở thời kỳ sau của giai đoạn có chửa và ở giai đoạn tiết sữa rất cao. Những người sản xuất có thể xác định điều này bằng cách đánh giá thay đổi điểm thể trạng ở bò cái.
Hình 4. Nhu cầu năng lượng hàng ngày để duy trì thể trạng một bò lai Brahman khối lượng 400kg (Tính toán của G. Forduyce, DPI, Charters Towers)
Bò có thể bù lại từng phần nhu cầu năng lượng thêm ra trong lúc cho sữa bằng cách tăng lượng thức ăn ăn vào, lượng thức ăn ăn vào có thể tăng >20%. Trong các điều kiện dinh dưỡng tốt lượng thức ăn ăn vào tăng này có thể đủ để cho bò cái duy trì khối lượng và thể trạng của cơ thể trong khi cung cấp sữa nuôi dưỡng một con bê (hoặc trong các trường hợp ngoại lệ tăng khối lượng lên một ít). Điều này có thể xảy ra ở bắc Australia vì bò đẻ trong mùa mưa ẩm ướt.
Do nhu cầu năng lượng cho tiết sữa, năng suất tối ưu của bò cái chỉ có được khi những người chăn nuôi kết hợp hài hoà giữa tháng cho sữa và nuôi dưỡng. Bò đẻ trong các thời điểm không thuận lợi như mùa khô sẽ tìm cách khắc phục sự thiếu hụt năng lượng bằng cách huy động các phần dự trữ của cơ thể (giảm khối lượng và thể trạng của cơ thể) và bằng cách sản xuất ít sữa hơn.
Tốc độ sinh trưởng của bê trong các điều kiện khắc nghiệt: ở Swan Lagoon (vùng nhiệt đới khô hanh) ở bắc Queensland bê bú sữa tăng trưởng điển hình 0,8-0,9 kg/ngày trong mùa ẩm. Tuy nhiên sự tăng trưởng này giảm xuống đến 0,5 kg/ngày trong đầu mùa khô và chỉ còn 0,3 kg/ngày vào cuối mùa khô.
Thiếu dinh dưỡng (protein và năng lượng) đặc biệt nghiêm trọng vào cuối mùa khô. Tại thời điểm này lượng chất khô ăn vào của những bò chửa to không được bổ sung thức ăn và ở những bò sữa chăn trên đồng cỏ có chất lượng k m điển hình là khoảng 1/3 đến 1/2 nhu cầu cần thiết. Bò cái ở trong các tình trạng này sẽ giảm khối lượng ở mức độ cao 1,25kg/ngày.
Động dục trở lại của bò cái chịu ảnh hưởng của tình trạng dinh dưỡng và tiết sữa. Sau khi đẻ bò mất ít nhất 3-4 tuần để đường sinh dục trở lại kích thước bình thường trước khi động dục có thể bắt đầu. Động dục lần đầu sau khi đẻ nói chung yếu, ngắn hơn bình thường, khả năng thụ thai thấp. Rất ít bò thụ thai nếu cho giao phối vào lúc đó. Vì vậy, do thời gian chửa kéo dài xấp xỉ 9 tháng 10 ngày và một tỷ lệ phần trăm mất phôi là rất bình thường, bò cái cần phải động dục trong vòng 2 tháng sau khi đẻ để khoảng cách giữa các lần đẻ là 12 tháng. Khoảng cách trung bình giữa các lần đẻ và động dục là khoảng 7 tháng ở Bắc Australia. Ở đó tỷ lệ cai sữa bình quân khoảng 55-60%. Đây chủ yếu là kết quả của dinh dưỡng nghèo, khả năng thụ thai thấp và cho bú kéo dài.
Hình 5. Tỷ lệ cai sữa và thời gian không động dục sau khi đẻ ước tính cho đàn bò thịt miền bắc Australia phối giống liên tục
(Tính toán của G.forduyce DPI, chanrters Towers)
Hình 5 cho thấy rằng: để đạt được tỷ lệ 80% cai sữa, bò cái phải có chửa trong vòng 4 tháng sau khi đẻ. Để động dục bò cái cần phải có một tập hợp các noãn nang phát triển khoẻ mạnh có thể rụng trứng với sự hỗ trợ thích hợp. Dinh dưỡng là nhân tố điều chỉnh chủ yếu sự phát triển của noãn nang. Khi buồng trứng đã đạt được một trạng thái có thể rụng trứng. Trúng không rụng một cách tự động. Trong khi dinh dưỡng có ảnh hưởng xa hơn đến sự tăng trưởng của noãn nang, cho bú ảnh hưởng mạnh nhất đến sự phát triển của noãn nang.
Ảnh hưởng của dinh dưỡng
Do tình trạng năng lượng của bò cái giảm xuống qua mùa khô, sự phát triển của noãn nang trong buồng trứng bị chậm lại. Đó là nguyên nhân chủ yếu tại sao bò cái ở điều kiện dinh dưỡng nghèo hơn khi đẻ mất thời gian dài hơn để chửa lại và có tỷ lệ có chửa thấp hơn sau khi cai sữa. Để tránh tình trạng này những người sản xuất có thể sử dụng các kỹ thuật chăm sóc quản lý (thí dụ như cai sữa, giảm bớt mật độ chăn thả, cường độ chăn thả, tỷ lệ đàn gia súc phối giống theo mùa vụ, bổ sung thức ăn) để giữ khối lượng và điều kiện bình thường cho bò cái qua mùa khô, bằng cách đó sẽ đảm bảo cho noãn nang phát triển bình thường. Thường thường người ta nhận thấy giá của đầu ra (bán bê) lớn hơn nhiều chi phí đầu tư cho việc chăm sóc quản lý này. Tuy nhiên các nhân tố như: tỷ lệ có thai, giá trị thu hồi của bò cái cần được xem xét cân nhắc khi tính toán chi phí cho bất kỳ chế độ cho ăn bổ sung nào.
Sự phát triển noãn nang không bao giờ ngừng lại và thậm chí xảy ra trong thời gian có chửa để chuẩn bị cho lần chửa tiếp theo. Rụng trứng bị ngăn cản trong thời gian chửa và tất cả noãn nang được tái hấp thu đi. Nếu sự phát triển của noãn nang bị chậm do stress về thức ăn dinh dưỡng cần có thức ăn giàu năng lượng để các nang trứng khoẻ mạnh được hồi phục.
Để tránh các vấn đề về thụ thai cho bò cái chăn thả trên đồng cỏ có chất lượng kém, chúng có thể phải được cung cấp thức ăn bổ sung giàu protein và năng lượng như bột hạt bông, rỉ mật với urê, ít nhất 50 ngày trước khi đẻ. Việc này sẽ phục hồi sự phát triển của noãn nang đã từng bị phát triển chậm lại. Việc này được gọi là cho ăn bổ sung cố định. Nếu ngay sau thời kỳ cho ăn bổ sung có một thời kỳ nghỉ, sự phát triển tiếp tục của noãn nang sẽ bị chậm lại trong giai đoạn sau khi đẻ như vậy tạo khả năng thụ thai sớm hơn và tỷ lệ bò có thai cao hơn trước khi cai sữa.
Nếu cung cấp thức ăn bổ sung giàu năng lượng để phục hồi sự phát triển của noãn nang bị chậm lại cho đến khi đẻ, cần phải cho ăn tiếp tục ít nhất 2 tháng. Vì vậy rất nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng trong thời gian tiết sữa bò mẹ có khuynh hướng tập trung chất dinh dưỡng cho việc sản xuất sữa. Sự phát triển của bò mẹ và bê sau khi bò đẻ sẽ tốt hơn nhưng khả năng đáp ứng về thụ thai sẽ thấp. Vì vậy dạng bổ sung này thường không có hiệu quả kinh tế.
Hình 6. Bò ăn thức ăn bổ sung
Ảnh hưởng của cho bú
Cho bú sẽ ức chế giải phóng các hormone sinh sản ở não và vì vậy ức chế khả năng động dục của bò mẹ. Thêm vào đó ở bò có sự tập trung về năng lượng cho sản xuất sữa. Một khi ngừng cho bú, bò mẹ thường nhanh chóng bắt đầu động dục lại. Thực hiện cai sữa tạo khả năng cho bò giữ được thể trạng tốt trong suốt mùa khô sẽ làm cho khả năng có thai tăng lên do giảm stress về dinh dưỡng.
Cai sữa tạm thời trong 48 - 72 giờ là phương pháp cải thiện sự thụ thai. Cai sữa tạm thời đã thu được các kết quả đáng kể trong một số hoàn cảnh nhưng nó dường như chỉ có tác dụng từng lúc. Phức tạp hơn nữa là ở chỗ cai sữa tạm thời tạo ra động dục lần đầu sau khi đẻ, đó là động dục ngắn và ít có khả năng thụ thai. Cai sữa tạm thời ở thời điểm duy nhất được khuyến cáo là khi sử dụng kết hợp với các phương pháp gây động dục hàng loạt đặc biệt sử dụng liệu pháp progesterone trong chương trình phối giống nhân tạo ở bò sữa.
Nhiều nghiên cứu đề nghị cho bê ăn thêm để giảm ảnh hưởng của bú sữa và tạo khả năng cho bò cái động dục trở lại sớm hơn. Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây cho thấy nói chung cho ăn thêm không có tác dụng tốt hơn và trong điều kiện chăn nuôi quảng canh không nên áp dụng biện pháp này.
Các thông tin trước đã mô tả các vấn đề sinh học cơ bản để tạo ra 1 con bê. Nhu cầu của gia súc cần phải gắn liền với nguồn tài nguyên sẵn có và thị trường để có thể đạt được các mục tiêu. Sau rất nhiều các nghiên cứu: phân tích tài chính, các mô hình trình diễn nhiều năm và kinh nghiệm tại các trang trại, hầu hết đã có các hệ thống nuôi dưỡng rất có hiệu quả có thể sử dụng được cho tất cả các vùng.
Tỷ lệ chết của con cái thường là vấn đề rất phổ biến, đặc biệt là trong các vùng chăn nuôi quảng canh. Trong nhiều năm tỷ lệ con cái chết trên tổng số bò loại thải ở Queensland là khoảng 35%, điều này cho thấy toàn bộ tỷ lệ chết hàng năm là 10%. Chăm sóc quản lý được cải thiện cho thấy tỷ lệ con cái bán ra hàng năm tăng lên 40%. Cách tính toán chi phí có hiệu quả nhất để có lãi hơn trong nhiều đàn bò thịt là cần phải giảm tỷ lệ chết của con cái. Các biện pháp chính có thể sử dụng là giảm mật độ chăn thả, thực hiện cai sữa tốt hơn, tiêm vacxin và bổ sung thức ăn có kết hợp với tách để nuôi riêng theo mục đích đã định sẵn.
Dinh dưỡng
Sản xuất thịt bò từ gia súc chăn thả trên đồng cỏ là chuyển cỏ thành thịt bò có chất lượng tốt, ăn ngon. Đồng cỏ cung cấp thức ăn sẵn có rẻ nhất. Vì vậy kiểm soát bò tốt, bảo đảm cho bò có đủ thức ăn thoả mãn yêu cầu và cung cấp nước đầy đủ cỏ chất lượng tốt là cơ sở để chăn nuôi bò thành công.
Dinh dưỡng (chất lượng đồng cỏ) thường ít khi ở trạng thái tối ưu. Có hai biện pháp chính để giải quyết sự thiếu hụt dinh dưỡng của đồng cỏ (ngoài việc trồng các giống đã cải tiến và đưa vào các cây họ đậu): chăm sóc quản lý và bổ sung thức ăn. Chăm sóc quản lý tốt bao gồm: điều chỉnh mật độ chăn thả, phân đàn, kiểm soát phối giống, cai sữa vào thời điểm tốt nhất, và lựa chọn các chất liệu di truyền hợp lý. Bổ sung thức ăn (thường là hỗn hợp các thức ăn khác nhau: nitơ, lưu huỳnh, phốtpho và năng lượng tuỳ thuộc vào từng vùng và thời gian trong năm) có thể là rất đắt.
Nhân giống
Bò tốt là những con bò sẽ sản xuất một cách có hiệu quả trong vùng nông thôn trên cơ sở của chế độ chăm sóc quản lý sẵn có và thoả mãn các nhu cầu xác định của thị trường. Trong các vùng stress về dinh dưỡng thường xuyên xảy ra và rất nghiêm trọng đặc biệt là ở những nơi có các stress khác về môi trường như nóng và ký sinh trùng, các giống thích thi với khí hậu nhiệt đới ở mức độ cao (như Zebu hoặc Sanga) cần sử dụng để giảm chi phí và tăng năng suất. Tỷ lệ của Zebu hoặc Sanga phải được cân bằng so với tiềm năng năng suất cao hơn của các giống bò Anh và bò châu Âu ở trong các môi trường tốt hơn.
Phối giống
Ở các vùng năng suất đồng cỏ cao hơn, phối giống theo mùa vụ thường được sử dụng để hạn chế đẻ tràn lan trong năm, bằng cách đó tập trung thời gian chăm sóc bò cái và bê cai sữa vào một thời điểm xác định trong năm và sản xuất nhiều bê cai sữa đồng nhất về khối lượng và tuổi. ở các vùng có đồng cỏ cằn cỗi hoặc cằn cỗi theo mùa, mục tiêu chủ yếu của phối giống theo mùa vụ là để ngăn cản tiết sữa trong mùa khô. Tốt nhất là bò cái tiết sữa trong mùa đồng cỏ phát triển. Việc này cũng sẽ tạo ra những bê cai sữa nặng cân nhất và cải thiện tỷ lệ đẻ hàng năm. Thời điểm để bắt đầu phối giống quan trọng hơn khoảng thời gian cho phối giống rất nhiều. Trong một số vùng phối giống bò cái liên tục từ lần thả đực vào đàn cái thứ 2 trở đi có thể là tốt nhất.
Cai sữa
Trong các đàn bò được chăm sóc quản lý tốt trong môi trường thuận lợi, bò cái phải chửa vào lúc cai sữa. Đối với những bò chưa chửa khi cai sữa bê, ngừng tiết sữa trong nhiều trường hợp tạo điều kiện cho bò động dục. Trong các mùa vụ khó khăn cai sữa sớm hơn có thể làm tăng tỷ lệ thụ thai và giữ ổn định thể trạng của cơ thể và như vậy sẽ giảm chi phí nuôi bò và bảo đảm tỷ lệ sống cao. Khối lượng và thể trạng tốt trước khi bước vào mùa phối giống tiếp có thể làm tăng một cách đáng kể tỷ lệ thụ thai. Tuy nhiên những bê được cai sữa ở tuổi còn non phải được chăm sóc quản lý để bảo đảm rằng chúng tiếp tục lớn lên.
Chăm sóc sức khoẻ đàn bò
Một số bệnh và ký sinh trùng có khả năng làm giảm hiệu quả kinh tế chăn nuôi bò thịt ở Queensland. May mắn là bò được nuôi dưỡng tốt và sử dụng vacxin sẽ khoẻ mạnh, ít bệnh tật. Các thông tin về sức khoẻ của đàn nông dân có thể có được từ cán bộ chăn nuôi của địa phương, nhân viên thú y hoặc các thầy thuốc thú y tư nhân.
Bò cái tơ
Các môi trường khắc nghiệt
Trong vùng nhiệt đới của miền bắc Australia tỷ lệ có thai ở bò cái tơ 2 năm tuổi thường <50%. Như vậy, lần tiết sữa đầu tiên thường xảy ra trong mùa khô, nên cả tỷ lệ nuôi sống và khả năng thụ thai đều thấp. Để đối phó với những vấn đề này, bò cái tơ thích hợp là bò cái tơ và bò cái 3,5 năm tuổi cần được nuôi dưỡng đặc biệt. Nuôi dưỡng tốt bò sẽ thành thục về tính sớm, tỷ lệ cai sữa cao, tỷ lệ chết thấp và dễ xác định các con cái loại thành bò thịt. Chỉ có những con bò dễ chăm sóc và có hiệu quả được đưa vào đàn bò cái ở 3,5 tuổi.
Sau đây là một ví dụ về một hệ thống duy trì chăm sóc quản lý riêng bò cái và bò cái tơ. Cần có hai bãi chăn thả bò cái tơ có rào chắn, một bãi cho bò cai sữa đến 18 tháng tuổi. Từ đó chúng được chuyển sang bãi có hàng rào chắn thứ hai rộng hơn cho 2 năm sau. Các bò cái tơ nhỏ được nuôi tách ra cho đến khi đủ khối lượng để nhập vào những bò cai sữa lớn tuổi hơn.
Thời gian phối giống hạn chế 3-4 tháng được khuyến cáo cho bò cái tơ ngay cả ở nơi phối giống bò cái theo kiểu liên tục, phối giống bò lúc 15-18 tháng tuổi, nếu chăn sóc quản lý tốt có thể làm tăng số bê đẻ ra trong đàn 5 đơn vị, với chi phí thấp. Tất cả bê được cai sữa vào cuối thời kỳ phối giống. Bổ sung thức ăn có thể sử dụng rất có hiệu quả vì bò được nuôi tách riêng thành các nhóm mục tiêu theo ý muốn. ở 3-5 tuổi những bò non hoặc được chuyển vào đàn bò giống hoặc chuyển sang nuôi thịt.
Những vùng có điều kiện dinh dưỡng tốt
Nguyên tắc áp dụng cho việc chăm sóc bò cái tơ và bê trong các vùng này cũng giống như trong các môi trường khắc nghiệt. Tuy nhiên phối giống lúc 15-18 tháng tuổi thực sự là một tiêu chuẩn và bò cái tơ đạt khối lượng lúc thành thục sớm hơn nhiều, nên bò cái non đưa vào trong đàn giống chỉ mới 2,5 năm tuổi. Khối lượng lúc thành thục về tính thường < 280 kg đối với bò giống của Anh.
Một số sự khác nhau trong chăm sóc quản lý là:
- Cho ăn thức ăn bổ sung để đạt được tăng trọng sau cai sữa 0,5kg/ngày thực tế có thể thực hiện được.
- Thiếu dinh dưỡng trong thời kỳ đầu có chửa cần phải được ngăn chặn vì nó có thể hạn chế phát triển của khung chậu và dẫn đến đẻ khó.
- Phối giống nói chung chỉ nên trong vòng 9 tuần, bắt đầu sớm hơn 1 tháng đối với bò tơ để đảm bảo có thức ăn chất lượng cao khi bò đẻ.
- Sử dụng đực giống 15-18 tháng tuổi hoặc đực giống có EBV về khối lượng sơ sinh thấp.